Hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS)
● Các triệu chứng và nguyên nhân
Hình 4: Viêm hệ thống và viêm phế nang trong sự phát triển của hội chứng suy hô hấp cấp tính
Viêm hệ thống và viêm phế nang không nhất thiết có mối tương quan ở những bệnh nhân mắc hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS). Các bảng cho thấy sự khác biệt giữa viêm giảm viêm toàn thân (A, C) và viêm tăng viêm (B, D), cũng như sự khác biệt giữa viêm giảm viêm phế nang (A, B) và viêm tăng viêm (C, D). Mặc dù các bảng này minh họa các tình huống cực đoan của hệ thống không có viêm phế nang và phế nang không có viêm hệ thống, mức độ nghiêm trọng của viêm hệ thống và phế nang tồn tại trên một phạm vi có thể thay đổi đáng kể tùy theo từng bệnh nhân, góp phần tạo ra sự không đồng nhất. (A) Các phế nang bình thường, không bị viêm hoặc tổn thương. (B) Những thay đổi quan sát được trong kiểu hình phụ tăng viêm, được đặc trưng bởi tình trạng viêm toàn thân, rối loạn chức năng nội mô và đông máu. Nếu không có viêm phế nang, tổn thương do viêm sẽ được đẩy từ khoang hệ thống về phía khoang phế nang (mũi tên màu vàng), dẫn đến tăng tính thấm và phù phế nang. (C) Những thay đổi ở những bệnh nhân bị viêm quá mức phế nang mà không có kiểu hình tăng viêm toàn thân. Các tế bào biểu mô phế nang, đại thực bào phế nang và bạch cầu trung tính có vai trò trung tâm trong việc sản xuất cytokine tiền viêm. Các tế bào biểu mô và đại thực bào rất cần thiết trong việc sản xuất các phân tử gây viêm. Bạch cầu trung tính tạo ra nhiều phân tử có hại khác nhau làm tổn thương tế bào phổi loại 1 và loại 2, dẫn đến tăng mức độ tổn thương tế bào phổi. Nếu không có viêm hệ thống, tổn thương do viêm trong tình huống này sẽ được đẩy từ phế nang về phía khoang hệ thống (mũi tên màu vàng), cũng dẫn đến tăng tính thấm và phù phế nang. (D) Sự hiện diện kết hợp của tình trạng viêm quá mức toàn thân và phế nang. Trong những trường hợp này, tình trạng viêm gây ra tổn thương phổi, tăng tính thấm và phù phế nang.
DOI: 10.1016/S0140-6736(22)01485-4
Hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS)
● Các triệu chứng và nguyên nhân
Hình 4: Viêm hệ thống và viêm phế nang trong sự phát triển của hội chứng suy hô hấp cấp tính
Viêm hệ thống và viêm phế nang không nhất thiết có mối tương quan ở những bệnh nhân mắc hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS). Các bảng cho thấy sự khác biệt giữa viêm giảm viêm toàn thân (A, C) và viêm tăng viêm (B, D), cũng như sự khác biệt giữa viêm giảm viêm phế nang (A, B) và viêm tăng viêm (C, D). Mặc dù các bảng này minh họa các tình huống cực đoan của hệ thống không có viêm phế nang và phế nang không có viêm hệ thống, mức độ nghiêm trọng của viêm hệ thống và phế nang tồn tại trên một phạm vi có thể thay đổi đáng kể tùy theo từng bệnh nhân, góp phần tạo ra sự không đồng nhất. (A) Các phế nang bình thường, không bị viêm hoặc tổn thương. (B) Những thay đổi quan sát được trong kiểu hình phụ tăng viêm, được đặc trưng bởi tình trạng viêm toàn thân, rối loạn chức năng nội mô và đông máu. Nếu không có viêm phế nang, tổn thương do viêm sẽ được đẩy từ khoang hệ thống về phía khoang phế nang (mũi tên màu vàng), dẫn đến tăng tính thấm và phù phế nang. (C) Những thay đổi ở những bệnh nhân bị viêm quá mức phế nang mà không có kiểu hình phụ tăng viêm toàn thân. Các tế bào biểu mô phế nang, đại thực bào phế nang và bạch cầu trung tính có vai trò trung tâm trong việc sản xuất cytokine tiền viêm. Các tế bào biểu mô và đại thực bào rất cần thiết trong việc sản xuất các phân tử gây viêm. Bạch cầu trung tính tạo ra nhiều phân tử có hại khác nhau làm tổn thương tế bào phổi loại 1 và loại 2, dẫn đến tăng mức độ tổn thương tế bào phổi. Nếu không có viêm hệ thống, tổn thương do viêm trong tình huống này sẽ được đẩy từ phế nang về phía khoang hệ thống (mũi tên màu vàng), cũng dẫn đến tăng tính thấm và phù phế nang. (D) Sự hiện diện kết hợp của tình trạng viêm quá mức toàn thân và phế nang. Trong những trường hợp này, tình trạng viêm gây ra tổn thương phổi, tăng tính thấm và phù phế nang.
DOI: 10.1016/S0140-6736(22)01485-4